Thông Tin Về Cá Trê
Cá trê được tìm thấy khắp Châu Phi và Trung Đông, chúng sống nước ngọt tại các hồ, sông, và đầm lầy, cũng như môi trường sống của con người tạo ra, chẳng hạn như ao có quá trình oxy hóa hoặc các cống của hệ thống xử lý nước thải tại đô thị. Cá trê trắng châu Phi đã được giới thiệu trên toàn thế giới vào những năm 1980 nhằm mục đích nuôi trồng thủy sản, do đó được tìm thấy ở các nước xa bên ngoài môi trường sống tự nhiên của chúng, chẳng hạn như Brazil, Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ.
Thói Quen
Nó sống về đêm như nhiều loài cá da trơn khác. Nó ăn động vật sống, cũng như đã chết. Với cái miệng rộng của nó, nó có thể nuốt chửng cả con mồi tương đối lớn. Nó đã được biết đến đã ăn nhiều loài chim nước như Gallinula chloropus. Cá trê cũng có thể trườn trên mặt đất khô để thoát khỏi hồ cạn nước. Hơn nữa, nó có thể để tồn tại trong bùn nông trong thời gian dài của thời gian, giữa mùa mưa. Cá da trơn châu Phi đôi khi tạo ra âm thanh lớn ộp ộp, không giống như tiếng hót của chim.
Nhu Cầu Thực Tế
Nhiều nông dân đã không thể nhân giống thành công Cá da trơn châu Phi. Do gặp nhiều khó khăn để có được cá giống và cá con có kích cỡ đồng đều, phát triển nhanh, kháng bệnh và đồng đều, trại giống cá trê châu Phi ra đời. Từ nhu cầu thực tế trên đặt ra vấn đề cấp thiết phải phát triển được nguồn cá giống chất lượng trong tương lai.
Các trại giống cá da trơn châu Phi, cá trê bắt đầu được thành lập điều kiện nhân tạo với số lượng thương mại. Những con cá bột này phát triển thành cá giống và sau đó chúng trở thành cá con. Thực tế trước đây dân địa phương thường là bắt cá giống hoặc cá con từ tự nhiên trong các nguồn sông, suối và thường không có kích thước đồng đều, chất lượng kém và dễ sinh bệnh.
Mùa sinh sản của cá trê châu Phi trong tự nhiên thường bắt đầu từ những cơn mưa đầu mùa.
Các bước nhân giống
Bước 1: Xác định và phân tách giới tính.
Cá đực và cá cái có thể dễ dàng được nhận ra. Con đực có một nhú gai ở bộ phận sinh dục khác biệt, thon dài và nằm ngay sau hậu môn. Bộ phận này thường có màu đỏ ở đầu khi cá đực đến thời kì sinh sản.
Chúng ta ấn nhẹ vào bụng cá cái về phía bộ phận sinh dục sẽ giải phóng những quả trứng chín cho thấy sự sẵn sàng cho quá trình sinh đẻ.
Bước 2: Kích Thích Cá Sinh Sản
Kích thích tố sử dụng để kích thích cá Trê sinh sản là não thùy thể thường dùng là não thùy cá chép, HCG (Human Chorionic Gonadotropin) là kích dục tố màng đệm của nhau thai tiết ra. Liều hormone dùng cho kích thích cá là 4.000– 6.000 UI/kg cá cái. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp cả hai loại kích dục tố trên. Đối với cá Trê nên sử dụng phương pháp kích thích cá hai liều với cá cái
- Lần một: gọi là liều sơ bộ, lượng kích dục tố sử dụng bằng 1/3 tổng liều.
- Lần hai: gọi là liều quyết định lượng kích dục tố sử dụng bằng 2/3 tổng liều và cách lần một từ 4 - 6 giờ.
Cá đực chỉ sử dụng phương pháp kích thích cá một lần duy nhất với liều lượng bằng liều sơ bộ của cá cái. Kích thích cá đực cùng thời điểm với liều quyết định cho cá cái. Vị trí tiêm kích dục tố có thể là gốc vây ngực, xoang bụng hoặc trên cơ lưng của cá. Thường tiêm trên cơ lưng sẽ an toàn và dể dàng hơn. Thời gian hiệu ứng kích dục tố của cá Trê từ 8 - 15 giờ, nghĩa là sau thời gian này kể từ khi kích thích cá bằng liều quyết định thì cá sẽ rụng trứng. Đối với phương pháp sinh sản nhân tạo thì việc xác định thời điểm rụng trứng này rất quan trọng, vì yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ thụ tinh của trứng, nếu trể hoặc sớm hơn cũng không tốt.
Bước 3: Đẻ Trứng Và Thụ Tinh
Cá đẻ trứng và thụ tinh tự nhiên
Sau khi kích thích cá bằng kích dục tố, bố trí cá theo tỷ lệ đực:cái là 1:1 vào bể đẻ có độ sâu mực nước từ 20 - 40 cm. Bể đẻ có diện tích từ 2 - 20 m2 trong đó có để sẳn giá thể là gạch đối với cá Trê phi và xơ dừa hoặc xơ nilon cho cá Trê vàng, nên căng một tấm lưới dưới đáy bể để hứng những trứng rơi rớt không bám trên giá thể. Mật độ cá thả vào bể là 5 cặp cá bố mẹ / m2. Chờ cá sinh sản xong, tiến hành vớt giá thể có trứng bám vào đem sang bể ấp.
Thụ tinh nhân tạo cho cá trê
Tách cá cái và cá đực bố mẹ trong hai bể khác nhau theo tỷ lệ 3 - 5 cá cái/1 cá đực. Sau khi kích thích cá bằng kích dục tố ta cần phải xác định chính xác thời điểm rụng trứng của cá cái để tiến hành vuốt trứng và thụ tinh nhân tạo. Vì cá đực rất khó vuốt lấy tinh dịch, do đó cần mổ bụng cá đực để lấy tinh sào.
Chuẩn bị dụng cụ
- Khăn, dao hay kéo để mổ bụng cá đực lấy tinh sào.
- Thau nhỏ để chứa trứng, chén để chứa tinh sào cá đực.
- Nước muối sinh lý hay dịch truyền.
- Giá thể để rắc trứng nên làm bằng khung lưới.
Tiến hành thụ tinh nhân tạo
- Tiến hành mổ cá đực lấy tinh sào ngay trước thời điểm cá rụng trứng.
- Vuốt trứng cá cái vào thau cần lau khô và sạch thau trước khi chứa trứng. Trước khi vuốt trứng cần lau tay và thân cá khô ráo để tránh nước rơi vào thau trứng.
- Dùng kéo cắt nhỏ tinh sào, sau đó vắt lấy phần tinh dịch. Kế tiếp pha loãng tinh dịch bằng 10 ml nước muối sinh lý.
- Trộn lẫn tinh dịch vào thau trứng, dùng lông gia cầm (lông vịt) khuấy đều trong một phút để trứng và tinh dịch hòa lẩn vào nhau. Nếu thấy đặc quá ta cần thêm nước muối sinh để gia tăng sự tiếp xúc với trứng của tinh trùng do tinh trùng vận động tốt hơn trong môi trường nước. Sau đó rửa trứng bằng nước sạch.
- Rắc đều trứng lên khung lưới được bố trí sẳn trong bể ấp, tránh rắc quá dày trứng dể bị hư.
Ấp Trứng Cá Trê
Dụng cụ ấp có thể là bể xi măng, composite hay bể lót bằng bạt nilon. Diện tích bể từ 1 - 20 m2. Độ sâu mực nước từ 20 - 60 cm. Mật độ ấp từ 20 000 - 30 000 trứng/m2. Trứng cá phải ngập vào trong nước. Cần cung cấp nước mới liên tục và oxy đầy đủ, nhất là ở thời điểm trước và sau khi nở phải đãm bảo từ 5 6 mg/lít. Độ pH dao động từ 6,5 - 7,5. Nhiệt độ nước bể ấp từ 25 - 33 0C, nhưng tối ưu là từ 28 - 30 0C.
Vấn đề mấu chốt của ấp trứng là môi trường nước phải sạch, không được để nước hư thối làm ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi cá. Trong quá trình ấp trứng cá không được để ánh nắng trực tiếp chiếu vào và nhiệt độ nước phải ổn định không được chênh lệch quá 20C. Thời gian phôi phát triển đến khi nở thành cá bột là 20 giờ ở cá Trê phi và 22 - 23 giờ ở cá Trê vàng.
Sau khi cá nở, tiến hành vớt giá thể ra. Cần thao tác nhẹ nhàng để tách trứng ung ra khỏi bể, nhằm giúp bể ương sạch hơn, làm tăng tỷ lệ sống của cá bột. Tiếp tục giữ cá ở bể ấp từ 2 - 3 ngày thì chuyển sang giai đoạn ương cá giống. Có thể sử dụng tiếp bể ấp làm bể ương cá bột hay vớt sang ao hoặc bể ương khác. Lúc này cá bột có thể ăn được thức ăn tự nhiên bên ngoài, và các loại thức ăn thuỷ sản khác.