Hiện nay, diện tích nuôi thủy sản nước ngọt tập trung nhiều ở huyện Phước Long, Hồng Dân, Giá Rai với các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế như tôm càng xanh - lúa, cá bống tượng, cá chình, cá lóc lồng...Thời điểm này, do đang trong giai đoạn mùa mưa thường xuyên chịu ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới nên các yếu tố môi trường ao nuôi sẽ diễn biến theo hướng bất lợi, ảnh hưởng không tốt cho thủy sản nuôi của người dân. Cần nắm vững một số kĩ thuật nuôi để kịp thời xử lí các vấn đề xảy ra đối với thủy sản nuôi.
Để hạn chế tác động xấu của môi trường đến sức khỏe tôm cá nuôi và nguy cơ thất thoát sản phẩm thủy sản trong vuông, ao nuôi. Xin lưu ý người dân một số biện pháp cần tiến hành sau đây:
Các biện pháp phòng bệnh cho động vật thủy sản
Trong mùa mưa lũ, do những biến đổi bất thường về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa…là nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp làm cho các vi sinh vật gây bệnh phát triển và phát tán, đồng thời gây nên các hiện tượng “sốc môi trường” cho động vật thủy sản, mầm bệnh có nhiều cơ hội xâm nhập vào cơ thể động vật thủy sản để gây bệnh. Trong những ngày mưa lớn kéo dài là điều kiện thuận lợi cho các bệnh do ký sinh trùng (bệnh trùng bánh xe, trùng quả dưa, nấm thủy mi, rận cá, bệnh đóng rong ở tôm…), các bệnh do vi khuẩn, vi rút như bệnh ghẻ hay còn gọi là bệnh đốm đỏ, bệnh viêm ruột...bộc phát và lây lan trên diện rộng. Do đó, cần phải tiến hành các biện pháp quản lý ao, chăm sóc động vật thủy sản như sau:
Thường xuyên quan sát tình trạng cá, tôm bơi lội trong ao. Khi có hiện tượng cá, tôm nổi đầu cần xác định nguyên nhân. Nếu là do thiếu ô xy, cần giảm lượng thức ăn, thay một phần nước ao, hoặc cấp thêm nước mới vào ao, tiến hành san thưa để giảm bớt mật độ. Đối với ao nuôi sau mỗi lần thay nước người nuôi phải xử lý nước bằng cách tạt vôi bột (vôi nông nghiệp) với liều lượng 3kg/m3 nước để làm cho nước trong sạch. Đồng thời, tiến hành cải thiện chất lượng nước bằng cách tạt các chế phẩm vi sinh theo liều lượng khuyến cáo, duy trì môi trường thích hợp cho tôm, cá sinh trưởng và phát triển ổn định.
Thường xuyên theo dõi mực nước, màu nước trong ao để kịp thời điều chỉnh; Đặc biệt, trong những ngày thời tiết trong giai đoạn chuyển mùa và những ngày chuyển trời để kịp thời điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp, tránh gây lãng phí, ô nhiễm chất lượng nước ao, vuông nuôi.
Bảo đảm môi trường ao nuôi cho cá, tôm trong sạch bằng cách định kỳ bón vôi, khoáng chất, chế phẩm vi sinh cho vuông, ao nuôi, liều lượng tùy theo đối tượng nuôi. Đối với nuôi cá bống tượng, cá chình...do thường xuyên sử dụng thức ăn tươi sống và phải nuôi với thời gian dài từ 8 - 10 tháng, nên chất lượng vào các tháng cuối chuyển biến xấu. Người nuôi có thể sử dụng các loại hóa chất phổ biến như Zeolite bón vào 3 tháng cuối chu kỳ nuôi để chúng hấp thu các độc tố (NH3, H2S) và kim loại nặng, liều dùng 1 - 2 kg/100 m3 kết hợp với vôi nông nghiệp CaCO3 với liều lượng 1 - 2 kg/100 m3 nước, định kỳ 10 ngày/lần.
Người nuôi cũng có thể sử dụng vôi bột cho vào túi và treo ở gốc ao, phía trên gió hoặc khu vực cho ăn để khử trùng môi trường nước, diệt các tác nhân gây bệnh cho cá nuôi. Liều lượng sử dụng là 2 - 4 kg vôi/10 m3 nước, treo túi với khoảng cách bằng 1/2 - 1/3 độ sâu của nước trong ao. Khi vôi tan hết lại tiếp tục treo túi khác.
Tăng cường sức đề kháng cho động vật thủy sản như bổ sung vitamin C trộn vào thức ăn công nghiệp cho cá ăn hàng ngày, sử dụng chế phẩm sinh học probiotic và enzyme tổng hợp để tăng cường tiêu hóa và bảo vệ đường ruột, liều lượng và cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
Cách biện pháp trị bệnh cho cá nuôi:
Bệnh trùng bánh xe ở cá
Dấu hiệu nhận biết: Bệnh này do các loại trùng có hình dạng như bánh xe phát triển cao điểm vào các mùa mưa, lũ. Chúng ký sinh trên da, mang, của cá. Khi cá mới mắc bệnh, mình cá có lớp nhớt màu hơi trắng đục, cá bệnh thường nổi đầu và thích tập trung nơi nước chảy. Đôi khi cá nhô đầu lên khỏi mặt nước và lắc mạnh đầu. Cá bệnh nặng mang cá sưng to, da cá chuyển màu xám, trông lờ đờ, đảo lộn vài vòng rồi chìm xuống đáy ao và chết.
Biện pháp trị bệnh: Dùng nước muối NaCl 2 - 3% tắm cho cá 5 - 15 phút, hoặc dùng CuSO4nồng độ 3 - 5 ppm tắm cho cá 5 - 15 phút hoặc phun trực tiếp xuống ao với nồng độ 0,5 - 0,7 ppm (0,5 - 0,7 g/m3 nước). Dùng formalin nồng độ 200 - 250 ppm (200 – 250 ml/m3) tắm trong 30 - 60 phút hoặc nồng độ 20 - 25 ppm (20 – 25 ml/m3) phun xuống ao, tắm vào buổi sáng sớm hoặc vào chiều tối.
Bệnh rận cá
Dấu hiệu nhận biết: Rận cá thường bám vào toàn thân cá, hút các chất nhờn làm bị đau, ngứa và cá chạy quanh ao một cách bất thường, nếu bám từ hai con trở lên cá sẽ bị chết.
Biện pháp trị bệnh: Để trị bệnh, dùng Iodine với liều lượng 2g/m3 nước, tắm cho cá liên tục 3 - 5 ngày kết hợp dùng Oxytetracyline 5g trộn vào 1kg thức ăn cho cá ăn liên tục trong 5 - 7 ngày.
Bệnh đốm đỏ (còn gọi bệnh ghẻ)
Dấu hiệu nhận biết: Nguyên nhân chính của bệnh này là do cá bị các ký sinh trùng bám vào làm cho cá bị trầy xước, cá bị xây sát ở miệng và đuôi, tạo điều kiện thuận lợi để các vi-rút, vi khuẩn tấn công vào cơ thể cá. Cá bệnh thường xuất hiện với những vết màu trắng xám ở phần đuôi sau đó lan dần lên đến thân là những vết ghẻ lở, cá bơi lội lờ đờ, toàn thân bị đen, cá chết.
Biện pháp trị bệnh: Cách trị bệnh, người nuôi dùng Formol với liều lượng 25 ml/m3 nước, tắm cho cá liên tục 3 - 5 ngày, kết hợp dùng Oxytetracyline 5g trộn vào 1 kg thức ăn cho cá ăn liên tục trong 5 - 7 ngày. Ngoài ra, người nuôi nên bổ sung vitamin C 5 g/kg thức ăn, cho ăn liên tục 7 - 10 ngày để tăng cường sức đề kháng, kích thích cá ăn mạnh, tăng cường tiêu hóa thức ăn.
Bệnh do vi khuẩn
Dấu hiệu nhận biết: Do vi khuẩn thường tấn công vào hệ thần kinh trung ương nên cá bị bệnh có biểu hiện bên ngoài như hôn mê, mất phương hướng, có thể tổn thương mắt: viêm mắt, lồi mắt, chảy máu mắt, có các vết áp-xe (có thể có mủ), xuất huyết ở quanh miệng, gốc vây hoặc quanh hậu môn, lỗ sinh dục. Ở giai đoạn nặng, trong bụng cá có dịch (chảy ra hậu môn), cá thường bỏ ăn.
Biện pháp trị bệnh: Đối với các bệnh do vi khuẩn có thể dùng một số loài kháng sinh như Erythromyxin hoặc Oxytetramyxin trộn vào thức ăn từ 3 - 7 ngày, dùng 2 - 5 g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ 1 - 2 ppm, sau đó sang ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4 g/100kg cá, từ ngày thứ 3 - 5 giảm còn một nửa